Diễn đàn, trao đổi kinh nghiệm
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27/11/2015, Bộ luật đã có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng, trong đó có việc tách Truy tố thành một phần độc lập gồm 2 chương 14 điều quy định đầy đủ nội dung của một giai đoạn tố tụng quan trọng.
7/15/2016 7:17:15 AMTrong phạm vi bài viết này xin được so sánh, phân tích một số quy định mới về “Thời hạn quyết định truy tố” được quy định tại Phần thứ ba (Truy tố), Chương XVIII, Điều 240 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, trên cơ sở so sánh với quy định tương ứng tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

Về kết cấu.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định “Thời hạn quyết định truy tố” tại Điều 166, bao gồm 4 khoản. Trong đó, khoản 1 quy định cụ thể về thời hạn; khoản 2 quy định về việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, việc truy nã bị can; khoản 3 quy định việc chuyển hồ sơ truy tố đến Tòa án; khoản 4 quy định việc chuyển vụ án không thuộc thẩm quyền.

            Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định “Thời hạn quyết định truy tố” tại Điều 240, với kết cấu gồm 3 khoản. Trong đó khoản 1 quy định cụ thể về thời hạn ra các quyết định: a) Truy tố bị can trước Tòa án. b) Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung. c) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với bị can; khoản 2 quy định việc giao nhận các quyết định được Viện kiểm sát ban hành tại khoản 1; khoản 3 quy định việc gửi các quyết định tại khoản 1 cho Viện kiểm sát cấp trên.

Như vậy, Điều 240 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã giảm 01 khoản (3 khoản) so với Điều 166 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (4 khoản).

Về nội dung.

Về mặt nội dung, khoản 1,2,3 Điều 240 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 so với các khoản 1,3,4 Điều 166 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 trên cơ sở có sự kế thừa, như: khoản 1 của hai điều luật đều quy định thống nhất về thời hạn truy tố cụ thể cho từng loại tội phạm, đó là: 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng; 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; việc gia hạn không quá 10 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Tuy nhiên, điểm mới và cũng là điểm khác biệt lớn nhất về quy định thời hạn truy tố trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, đó là quy định cụ thể về đối tượng được thông báo hoặc được nhận một trong các quyết định mà Viện kiểm sát ban hành trong giai đoạn truy tố. Cụ thể:

Khoản 1 Điều 166 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “....Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra một trong các quyết định nêu trên, Viện kiểm sát phải thông báo cho bị can, người bào chữa biết; giao bản cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án cho bị can. Người bào chữa được đọc bản cáo trạng, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa theo quy định của pháp luật và đề xuất yêu cầu.”;

Khoản 2 Điều 240 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Trong thời hạn ba ngày kể từ ngày ra một trong các quyết định quy định tại khoản 1 Điều này, Viện kiểm sát phải thông báo cho bị can, người bào chữa hoặc người đại diện của bị can, bị hại biết việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung; giao cho bị can hoặc người đại diện của bị can và gửi cho Cơ quan điều tra, người bào chữa bản cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án, quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can; thông báo cho bị hại, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

...

Trường hợp vụ án phức tạp thì thời hạn giao bản cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án cho bị can hoặc người đại diện của bị can có thể kéo dài nhưng không quá 10 ngày. ”

Như vậy, ta thấy rõ sự khác nhau về đối tượng được thông báo hoặc được nhận các quyết định của Viện kiểm sát trong thời hạn truy tố giữa Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, cụ thể như sau:

Đối với bị can, bị hại, người đại diện của bị can, bị hại: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định cụ thể từng trường hợp Viện kiểm sát phải thông báo hoặc giao quyết định không chỉ cho bị can mà còn cho bị hại, người đại diện của bị can, bị hại. Đó là: trường hợp Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát  phải thông báo cho bị can, người bào chữa hoặc người đại diện của bị can, bị cáo; trường hợp Viện kiểm sát ra bản cáo trạng hoặc các quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ (vụ án, bị can) thì Viện kiểm sát phải giao cho bị can hoặc người đại diện của bị can và  thông báo cho bị hại, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Trong khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 chỉ quy định Viện kiểm sát phải thông báo và giao một trong ba quyết định trên cho bị can.

Đối với người bào chữa cho bị can và người bảo vệ quyền lợi cho bị hại:

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định Viện kiểm sát phải gửi cho người bào chữa bản cáo trạng, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ (vụ án, bị can) và phải thông báo cho người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại đây là một bước tiến rất lớn của sửa đổi Bộ luật lần này.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 không đề cập đến quyền của Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại được thông báo hay nhận các quyết định trong thời hạn truy tố của Viện kiểm sát, đồng nghĩa là họ không được thông báo hay được nhận các quyết định này, mà chỉ quy định người bào chữa được thông báo, được đọc bản cáo trạng, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án.

Việc sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự như trên, đặc biệt là việc Viện kiểm sát phải gửi bản cáo trạng cho người bào chữa của bị can là việc tăng quyền và tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa tiếp cận nhanh nhất với quyết định truy tố bị can, tạo tiền đề cho sự chuẩn bị bào chữa, thể hiện rõ ràng quan điểm cải cách tư pháp là tạo sự bình đẳng trong tranh tụng tại phiên tòa.

Về thời hạn.

Thời hạn giao các quyết định cho bị can (cáo trạng, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án):

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định thời hạn giao các quyết định trên là 3 ngày.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ngoài quy định thời hạn “cứng” để giao các quyết định trên là 3 ngày còn quy định đối với những vụ án phức tạp thì thời hạn giao có thể kéo dài đến 10 ngày.

Đây là sự bổ sung của luật mang tính chất rất thực tiễn, bởi lẽ trong nhiều năm qua và hiện hành Viện kiểm sát gặp rất nhiều khó khăn trong việc giao nhận các quyết định của Viện kiểm sát trong thời hạn truy tố, đặc biệt là việc giao nhận cáo trạng cho bị can tại ngoại. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã giải quyết được sự bất cập đó bằng việc quy định kéo dài thời hạn giao nhận, song ấn định thời gian không quá 10 ngày.

Ngoài ra, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 còn quy định cụ thể việc Viện kiểm sát phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cấp trên để Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên thực hiện các quyền rút, đình chỉ, hủy bỏ các quyết định theo quy định của pháp luật, trong khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 chỉ quy định việc VKS phải ra quyết định chuyển vụ án cho Viện kiểm sát có thẩm quyền đối với trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền truy tố của mình. Việc quy định như trên của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 vừa đảm bảo sự chặt chẽ, cũng đồng thời nhằm kịp thời phát hiện những sai sót, vi phạm của Viện kiểm sát cấp dưới để Viện kiểm sát cấp trên có những quyết định điều chỉnh nhằm đảm bảo vụ án được giảii quyết đúng pháp luật.

Như vậy, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có những điểm rất mới so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, nó thể hiện sự kế thừa song có nhiều quy định rất tiến bộ mà một trong đó là quy định về “Thời hạn quyết định truy tố”, đã giải quyết được các khó khăn, vướng mắc bất cập từ thực tiễn, đồng thời tạo ra sự bình đẳng, tôn trọng quyền con người của bị can, quyền bào chữa của bị can, Luật sư, quyền của bị hại, người bảo vệ quyền lợi ích cho bị hại, nhằm thể chế hóa chủ trương cải cách tư pháp hiện nay ./.

                                                                   Lê Minh – Phòng 2, VKSND tỉnh

  • Thành viên

Phần mềm quản lý

Liên kết website

Thống kê

Đang truy cậpKhách online : 2142

Tổng lượt truy cậpTổng số truy cập : 5808685