Diễn đàn, trao đổi kinh nghiệm
Rút kinh nghiệm đối với bản án hôn nhân gia đình có vi phạm phải sửa án
10/19/2021 1:57:07 PMVụ án “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” giữa nguyên đơn là ông Phạm Hồng P; bị đơn là bà Đoàn Thị T.

Nội dung vụ án: Ông P và bà T không đăng ký kết hôn, chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1990 đến năm 2001 thì phát sinh mâu thuẫn nên không chung sống với nhau nữa. Đến năm 2002, ông bà lại quay về sống chung với nhau và có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn vào ngày 25/9/2002. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, ông P khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn, chia tài sản chung của vợ chồng. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, các đương sự thống nhất với nhau về quan hệ hôn nhân, về con chung; không thống nhất được tài sản chung và nợ chung.  

Về tài sản chung: Nguyên đơn xác định trước khi sống cùng bà T, ông có tài sản riêng là diện tích đất 120m2. Năm 1993, ông và bà T mua thêm của bà Đỗ Thị H 37m2 đất. Bà T xác định, quá trình vợ chồng sử dụng đất, bà T đã cùng ông P trả nợ tiền xây dựng nhà, nộp tiền chuyển đổi đất cho Hợp tác xã. Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 26/12/2003, diện tích đất được quyền sử dụng 156m2 đất thổ cư. Theo đo đạc hiện trạng năm 2007, diện tích thửa đất trên là  168,7m2 và theo đo đạc hiện trạng ngày 18/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện là 164,2m2.

Về nợ chung: Theo bị đơn- bà T trình bày, vợ chồng có nợ chung gồm: Năm 2016, nợ con gái là chị Phạm Thị Hồng X 85 triệu đồng để sửa nhà. Năm 2020, nợ anh Lương Đức H 165 triệu đồng để nuôi hai con ăn học. Năm 2020, nợ anh C 310 triệu đồng tiền anh C gửi nhờ trả nợ hộ. Các khoản nợ này đều không có giấy vay nợ chỉ có chứng từ chuyển tiền và tin nhắn vay nợ của anh H. Đối với số tiền vay chị X 85 triệu ông P biết vì tại đơn thuận tình ly hôn ngày 10/11/2019 bà đã giao nộp cho Tòa án, ông P thừa nhận vợ chồng có khoản nợ chung này. Tiền vay anh H ông P không biết vì bà là người quản lý kinh tế, chi tiêu trong gia đình. Tiền của anh C thì ông P giữ sau đó đã trả lại bà nên bà không yêu cầu. Bà T đề nghị Tòa án xem xét giải quyết đối với khoản nợ chị X và anh H để đảm bảo quyền lợi cho bà. Ông P cho rằng vợ chồng không có nợ chung và không chấp nhận yêu cầu trả nợ của bà T.

Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện đã quyết định: Xác nhận 120m2 đất ở tài sản gắn liền với đất là 02 gian nhà mái bằng tầng 1 diện tích 32m2 là tài sản riêng của ông P. Ông P có trách nhiệm thanh toán công sức đóng góp của bà T đối với tài sản riêng nêu trên. Xác định tài sản chung của vợ chồng là 40m2 đất ở, giao cho ông P được quyền sở hữu, sử dụng, ông P phải thanh toán tiền chênh lệch trị giá tài sản chung cho bà T.

Bị đơn kháng cáo về quan hệ tài sản, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh kháng nghị đề nghị hủy án do vi phạm về tống đạt, thông báo văn bản tố tụng, về việc không xem xét giải quyết yêu cầu của đương sự và đánh giá chứng cứ dẫn đến sai về nội dung, không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự tự thỏa thuận được với nhau về nợ chung và bị đơn rút yêu cầu giải quyết về nợ chung.

Bản án dân sự  phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát đã sửa bản án sơ thẩm xác định diện tích đất 164,2m2 (theo kết quả đo đạc thực tế) tại thửa số 356/45, tờ bản đồ số 07 cùng các công trình xây dựng trên đất và đồ dùng sinh hoạt trong gia đình là tài sản chung của vợ chồng để chia tài sản chung.

Những vi phạm cần rút kinh nghiệm

- Vi phạm về tống đạt, thông báo văn bản tố tụng.

Tại bản tự khai 04/12/2020, bà T trình bày và yêu cầu giải quyết đối với các khoản nợ của chị X, anh H. Ngày 14/4/2021, Tòa án lập biên bản giao trách nhiệm cho bà T phải thông báo cho chị X, anh H nộp đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết các khoản nợ và cung cấp các tài liệu chứng cứ đối với các khoản nợ này và nộp cho tòa án trước ngày tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải.

Tòa án cấp sơ thẩm thông qua bà T để tống đạt cho các đương sự khác mà không có văn bản yêu cầu bà T cung cấp địa chỉ của những người này để tự mình thực hiện việc tống đạt cho họ biết về yêu cầu của bà T để họ thực hiện quyền yêu cầu của mình là vi phạm quy định tại Điều 170, Điều 171, Điều 173 Bộ luật tố tụng dân sự làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đương sự.

- Vi phạm về việc không xem xét giải quyết yêu cầu của đương sự.

Ngày 15/4/2021, bà T nộp bản tự khai cung cấp địa chỉ cụ thể của chị X và anh H tại Nhật Bản. Tuy nhiên, Tòa án án nhân dân huyện không giải thích pháp luật, không yêu cầu bà T nộp chi phí tố tụng để thực hiện việc ủy thác tư pháp đối với chị X và anh H theo quy định của pháp luật, vi phạm Điều 151, 152 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ngày 31/5/2021 và ngày 04/6/2021, bà T giao nộp đơn đề nghị yêu cầu giải quyết nợ của chị X, anh. Ngày 07/6/2021, Tòa án nhân dân huyện căn cứ khoản 2 Điều 201 của Bộ luật tố tụng dân sự ra thông báo số 01 trả lại đơn yêu cầu của chị X và anh H.

Như vậy, chị X và anh H là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhưng Tòa án nhân dân huyện không đưa họ vào tham gia tố tụng, thực hiện việc tống đạt cho đương sự không đúng quy định của pháp luật, không thụ lý yêu cầu của đương sự khi đương sự có yêu cầu làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các đương sự. Mặt khác, theo quy định thời hạn khiếu nại thông báo báo trả lại đơn là 10 ngày nhưng Tòa án tuyên quyền khiếu nại trong thời hạn 7 ngày cho anh H, chị X là vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật tố tụng dân sự. Trong thông báo trả lại đơn ghi rõ nơi ở hiện tại của anh H, chị X nhưng ngày 11/6/2021, Tòa án thực hiện việc tống đạt thông báo trên cho bà T mà không thực hiện việc tống đạt cho anh H, chị X theo địa chỉ nơi ở hiện tại  của anh chị là vi phạm Điều 170, 171 Bộ luật tố tụng dân sự. Ngày 21/6/2021, bà T giao nộp hai đơn khiếu nại của anh H, chị X không đồng ý với việc trả lại đơn của Tòa án là còn trong thời hạn 10 ngày theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật tố tụng dân sự. Nhưng Tòa án nhân dân huyện không thụ lý đơn khiếu nại, không mở phiên họp giải quyết khiếu nại là vi phạm quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 194 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bản án phúc thẩm nhận định: Toà án cấp sơ thẩm vi phạm tố tụng trong việc tống đạt, giải quyết yêu cầu của chị X, anh H và không lập thủ tục xem xét khiếu nại trả lại đơn khởi kiện của chị X, anh H là có căn cứ, tuy nhiên tại phiên toà phúc thẩm ông P và bà T đã thỏa thuận được việc trả nợ cho chị X, anh H đồng thời bà T rút yêu cầu giải quyết đối với hai khoản nợ trên nên không cần thiết phải huỷ bản án sơ thẩm như nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh.

- Vi phạm về nội dung:

Nguyên đơn xác định trước khi sống cùng bà T, ông có tài sản riêng là diện tích đất 120m2. Năm 1993, ông và bà T mua thêm của bà H 37m2 đất. Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 26/12/2003, diện tích đất được quyền sử dụng 156m2 đất thổ cư. Theo đo đạc hiện trạng năm 2007, diện tích thửa đất trên là  168,7m2 và theo đo đạc hiện trạng ngày 18/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện là 164,2m2. Tuy nhiên, bản án quyết định tài sản riêng của ông P là 120m2, tài sản chung của vợ chồng là 40m2 là không phù hợp với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.

Tại cấp phúc thẩm Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ thể hiện, trước khi kết hôn với bà T, ông P được bố mẹ cho diện tích đất 120m2 và ngôi nhà một tầng, sau đó ông P xây dựng thêm nhà bếp, tuy nhiên quá trình vợ chồng sử dụng đất, bà T đã cùng ông P trả nợ tiền xây dựng nhà, nộp tiền chuyển đổi đất cho Hợp tác xã đồng thời mua thêm đất để nhập chung vào diện tích đất 120m2, sau đó vợ chồng xây dựng thêm các công trình kiên cố trên thửa đất. Năm 2003, ông bà được UBND huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi vợ chồng đang hòa thuận vui vẻ. Vì vậy xác định nhà đất tại thửa đất số 356/45, tờ bản đồ số 07 là tài sản chung của vợ chồng.

Bản án phúc thẩm nhận định kháng nghị của Viện kiểm sát về nội dung vụ án là có căn cứ, quyết định sửa bản án sơ thẩm, xác định diện tích đất đo đạc thực tế 164,2m2 cùng các công trình xây dựng trên đất và đồ dùng sinh hoạt trong gia đình là tài sản chung của vợ chồng để phân chia cho các đương sự trên cơ sở công sức đóng góp, tạo lập tài sản chung.

Nhâm Huyền – Phòng 9

 

 

  • Thành viên

Phần mềm quản lý

Liên kết website

Thống kê

Đang truy cậpKhách online : 15348

Tổng lượt truy cậpTổng số truy cập : 5345332