Tin nghiệp vụ
Rút kinh nghiệm trong công tác kiểm sát bản án, phát hiện vi phạm của Tòa án để kháng nghị phúc thẩm
4/21/2022 3:36:35 PMVụ án dân sự “Tranh chấp về thừa kế tài sản” giữa nguyên đơn: anh Nguyễn Văn Mười, bị đơn chị Nguyễn Thị Lan, chị Nguyễn Thị Cúc, anh Nguyễn Văn Hải, chị Nguyễn Thị Hoa, chị Nguyễn Thị Phương. Đều có địa chỉ: thôn Tống Văn, xã Vũ Chính, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình do Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình kháng nghị. Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng nghị sửa bản án sơ thẩm do vi phạm trong việc chưa xác minh thu thập tài liệu chứng cứ, đánh giá chứng cứ chưa đầy đủ toàn diện và xác định không chính xác di sản thừa kế để chia theo quy định pháp luật.

I. Nội dung vụ án

Ông  Nguyễn Văn Xuân (Tú) kết hôn với bà Trần Thị Ngoan năm 1983, ông bà có một người con chung là Nguyễn Văn Mười. Trước khi kết hôn với bà Ngoan, ông  Tú lấy bà Nguyễn Thị Phượng (đã chết năm 1982). Ông  Tú và  Bà  Phượng có 08 người con là: Nguyễn Thị Lan, Nguyễn Thị Cúc, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Thị Sen, Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Thị Hoa, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Thị Phương (chị Nguyễn Thị Sen và anh Nguyễn Văn Hảo đều chưa lập gia đình, chưa có con và đều đã chết sau bà  Phượng và trước ông  Tú). Ông  Tú không có con nuôi. Năm 1996, ông  Tú chết không để lại di chúc.

Khi chết ông  Tú có để lại tài sản gồm:

- 01 ngôi nhà xây mái bằng (tạo lập cùng bà Ngoan) và thửa đất số 486 tờ bản đồ số 25 bản đồ 241 diện tích 173m2, hiện nay là thửa số 311 tờ bản đồ số 25 bản đồ VLAP, diện tích đất 223,3m2 anh Nguyễn Văn Hải đang quản lý sử dụng.

 - Thửa đất ao số 659 tờ bản đồ số 25 bản đồ 241 diện tích 275m2. Năm 2000 đã chuyển đổi thành 92m2 ruộng cơ bản cho hộ gia đình 04 khẩu gồm: Nguyễn Văn Tú, Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Văn Mười, Nguyễn Thị Phương. Hiện nay Nguyễn Thị Phương, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Thị Lan, Nguyễn Thị Hoa đang quản lý.

- Thửa đất vườn số 658 tờ bản đồ số 25 bản đồ 241 diện tích 100m2 hiện nay Nguyễn Thị Cúc, Nguyễn Thị Lan đang quản lý.

- Thửa đất ao số 673 tờ bản đồ số 25 bản đồ 241 diện tích 56m2 hiện nay Nguyễn Văn Hải đang quản lý.

- 01 xuất ruộng cơ bản 360m2 hiện nay anh Nguyễn Văn Hải đang quản lý.

Ngoài ra khi còn sống ông  Tú đã bán cho ông Phòng thửa đất ở 661 tờ bản đồ số 25 bản đồ 241 diện tích 100m2.

Anh Mười yêu cầu chia thừa kế tài sản của cụ Nguyễn Văn Tú theo quy định pháp luật.

Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2021/DS-ST ngày 26/8/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, xử:

Chia thừa kế di sản của ông Nguyễn Văn Xuân (Tú) theo pháp luật.

Mỗi thừa kế được hưởng giá trị tiền là 227.613.000đ. Anh Nguyễn Văn Hải được hưởng 227.613.000đ tiền công sức duy trì tôn tạo di sản.

Giao cho anh Nguyễn Văn Hải sở hữu ngôi nhà mái bằng và quyền sử dụng 173m2 đất ở trong thửa số 311 tờ bản đồ số 25 bản đồ VLAP diện tích 223,3m2 thôn Tống Văn, xã Vũ Chính, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình; Quyền sử dụng 01 suất đất ruộng cơ bản của ông  Tú (anh Hải đang quản lý sử dụng); Quyền sử dụng 24,3m2 đất vườn và 58,1m2 đất ao trong thửa 385 tờ bản đồ số 25 (VLAP), diện tích đất 172,2m2 thôn Tống Văn, xã Vũ Chính, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Tổng trị giá tài sản là 1.576.546.000đ.

- Giao cho anh Nguyễn Văn Trung quyền sử dụng 11,3m2 đất vườn (trị giá 2.135.000 đ) trong thửa đất số 382 tờ bản đồ số 25 (VLAP), diện tích đất 235,6m2 thôn Tống Văn, xã Vũ Chính, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

- Giao cho chị Nguyễn Thị Cúc quyền sử dụng 46,3m2 đất vườn (trị giá 8.750.000đ) trong thửa số 384 tờ bản đồ số 25 (VLAP) diện tích 179,9m2 thôn Tống Văn, xã Vũ Chính, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

- Giao cho chị Nguyễn Thị Lan quyền sử dụng 30,9m2 đất vườn (trị giá 5.840.000 đ) trong thửa đất số 383 tờ bản đồ số 25 (VLAP) diện tích 123,5m2 thôn Tống Văn, xã Vũ Chính, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

- Anh Hải có trách nhiệm thanh toán cho các đồng thừa kế phần di sản họ được hưởng như sau:

1. Nguyễn Thị Lan số tiền 221.773.000đ.

2. Nguyễn Thị Cúc số tiền 218.862.000đ.

3. Nguyễn Văn Trung số tiền 225.477.000đ.

4. Nguyễn Thị Hoa số tiền 227.613.000đ.

5. Nguyễn Thị Phương số tiền 227.613.000đ.

6. Trần Thị Ngoan số tiền 227.613.000đ.

7. Nguyễn Văn Mười số tiền 227.613.000đ.

Anh Hải thanh toán cho bà Ngoan 25.000.000đ tiền 1/2 ngôi nhà.

Phần di sản còn lại của  Bà  Phượng chưa chia là 1.537.780.000đ giao cho anh Hải tiếp tục quản lý sẽ được giải quyết khi có yêu cầu.

Phần tài sản của bà Ngoan giao cho anh Mười quản lý.

          Ngoài ra bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, quyền thi hành án và quyền kháng cáo cho các đương sự.

Ngày 08/9/2021, anh Nguyễn Văn Mười kháng cáo, không đồng ý với việc xác định di sản và không đồng ý cách chia di sản thừa kế của Tòa án cấp sơ thẩm. Anh đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm chia lại toàn bộ di sản của ông Nguyễn Văn Xuân (Tú) bao gồm: nhà ở, đất ở tại đất số 486, đất ao tại thửa số 659 và thửa số 673, đất vườn tại thửa số 658 – theo bản đồ 241 năm 1996.

Ngày 28/9/2021, anh Nguyễn Văn Trung gửi đơn kháng cáo toàn bộ bản án, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản án để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của anh Trung theo quy định pháp luật.

Ngày 10/9/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐKNPT-VKS-DS, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét xử phúc thẩm theo hướng sửa bản án sơ thẩm, xác định lại di sản thừa kế của ông  Tú và chia lại di sản thừa kế theo quy định của pháp luật.

  Bản án phúc thẩm/2022/DS-PT ngày 07/4/2022 của TAND tỉnh Thái Bình quyết định:

          Chấp nhận toàn bộ kháng nghị số 03/QĐKNPT-VKS-DS ngày 10/9/2021của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn anh Nguyễn Văn Mười, không chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Văn Trung. Áp dụng khoản 2 Điều 308 BLTTDS: Sửa Bản án số 08/2021/DS-PT ngày 26/8/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình.

2. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm.

         *Về xác định di sản để chia:

         -  Đối với thửa đất 673 có diện tích 56 m2 đất ao và thửa đất 658 có diện tích 100 m2 đất vườn, thửa đất 659, diện tích 275m2 đất ao: Tòa án cấp sơ thẩm không thu thập được bản đồ 299, chưa xác minh làm rõ nguồn gốc hai thửa đất 673, 658 mà  căn cứ vào bản đồ 241 và sổ mục kê năm 1996 và  xác định là di sản của ông  Tú để lại để tiến hành chia thừa kế và xác định thửa 659 không còn là di sản thừa kế  là chưa chính xác. 

         Tại cấp phúc thẩm, ngày 20/01/2022 Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình đã có Công văn gửi Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Thái Bình, Văn phòng đăng ký đất đai Sở tài nguyên tỉnh Thái Bình để thu thập các tài liệu liên quan đối với các thửa đất đang tranh chấp. Ngày 17/02/2022 và ngày 22/02/2022 xác minh, thu thập chứng cứ tại Ủy ban nhân dân xã Vũ Chính. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thu thập được Tòa án cấp phúc thẩm  đã  chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát. Ông  Tú đứng tên chủ sử dụng đất đối với các thửa đất số 468, 658, 659 673 và diện tích 360m2 đất trồng lúa hiện nay anh Hải đang sử dụng, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản của ông  Tú đối với các thửa đất trên là có căn cứ chấp nhận.

         Đối với thửa đất 659, diện tích 275m2 đất ao Tòa án cấp sơ thẩm xác định toàn bộ diện tích đất trên là đất ao ông  Tú đã cho anh Trung vào năm 1991, vì vậy không còn là di sản của ông Tú. Tuy nhiên căn cứ vào Đơn xin chuyển tài sản thừa kế của ông  Tú đề ngày 10/01/1991 thì ông  Tú tặng cho anh Trung 02 cái ao liền nhau:  ao to giáp mặt đường dài 37m rộng 20m, ao nhỏ giáp mặt đường 20m rộng 10m. Thửa 659 theo bản đồ 241 và phiếu trích thửa dân cư có diện tích 275m2 có tứ cận: phía Tây giáp đường 223 dài 16,2m, phía Đông giáp đất thủy lợi dài 18,6m phía Bắc giáp thửa 660 dài 17,5m, phía Nam giáp thửa 658. Tại phiếu thu đề ngày 08/11/1992, anh Trung nộp tiền chuyển đổi diện tích 377m2 đất ao sang đất thổ thì diện tích đất ao có kích thước phía tây giáp đường 223 dài 21m, phía đông giáp máng hợp tác xã dài 21m, phía bắc dài 18m giáp khu dân cư, phía nam dài 18m giáp khu dân cư. Như vậy đối chiếu vị trí, kích thước, diện tích với diện tích đất ao ông  Tú cho anh Trung không đúng vị trí, kích thửa đất 659. Anh Trung trình bày diện tích đất ao ông  Tú cho anh đã chuyển đổi mục đích sử dụng sang đất ở nhưng đến năm 1996 khi Nhà nước đo đạc thiết lập bản đồ diện tích thửa đất 659 vẫn là đất ao và mang tên cụ Nguyễn Văn Tú. Ông  Tú, anh Trung không có ý kiến gì, do đó cấp sơ thẩm cho rằng thửa đất 659 của ông  Tú cho anh Trung và không còn là di sản để chi là không chính xác, cần phải xác định thửa đất 659 chưa được định đoạt và chia thừa kế theo pháp luật.

         * Vi phạm về cách chia kỷ phần thừa kế:        

Ông Nguyễn Văn (Xuân) Tú và bà Nguyễn Thị Phượng sinh được 08 người con chung, trong đó có 02 người con chung là bà Sen và ông Hải chết lúc chưa lập gia đình, chưa có con và đều chết sau bà  Phượng. Tòa án xác định tài sản chung của ông  Tú và  bà  Phượng là đất thổ cư tại thửa đất T486 có diện tích là 173 m2 trị giá 3.460.000.000 đồng (20.000.000 đồng x 173 m2). Như vậy di sản thừa kế của ông  Tú là ½ giá trị thửa đất và = 1.730.000.000 đồng và của  Bà  Phượng là ½ giá trị thửa đất và = 1.730.000.000 đồng.  Bà  Phượng chết năm 1982, không để lại di chúc, nên các hàng thừa kế của  Bà  Phượng là 08 người con và ông  Tú là 09 suất thừa kế. Ông  Tú mất vào năm 1996 nên ông  Tú sẽ được hưởng 01 suất thừa kế của  bà  Phượng. Hai con Sen và Hảo chết sau  bà  Phượng và chết trước ông  Tú, đều chưa có gia đình và chưa có con, nên ông  Tú là hàng thừa kế duy nhất của con Sen và con Hảo. Do vậy di sản thừa kế của ông  Tú sẽ được hưởng thêm 02 suất thừa kế của con Sen và con Hảo. Tuy nhiên  bản án Tòa án  xác định ông  Tú chỉ được hưởng 01 suất thừa kế của  Bà  Phượng là thực hiện không đúng theo khoản 1 Điều 611, điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự, dẫn đến xác định thiếu di sản thừa kế của ông  Tú ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các đương sự. Nội dung kháng nghị này của Viện kiểm sát thành phố được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận. Vì vậy, di sản của ông  Tú là 1/2 + 3/9 của ½ khối tài sản chung của ông  Tú với  Bà  Phượng nêu trên.

         Trong quá trình kiểm sát giải quyết vụ án, Kiểm sát viên Viện kiểm sát thành phố đã chủ động nghiên cứu hồ sơ, đối chiếu với các quy định của pháp luật đồng thời nghiên cứu kỹ bản án nên khi có quan điểm khác nhau đã kịp thời báo cáo Lãnh đạo đơn vị, Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Phòng 9 để nắm bắt nội dung vụ án, thống nhất xác định vi phạm trước khi ban hành kháng nghị. Do vậy chất lượng kháng nghị tốt, được Tòa án chấp nhận, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự.

Lê Thị Huệ

Tin liên quan
  • Thành viên

Phần mềm quản lý

Liên kết website

Thống kê

Đang truy cậpKhách online : 116

Tổng lượt truy cậpTổng số truy cập : 5336437