Tin nghiệp vụ
Rút kinh nghiệm đối với Bản án giải quyết vụ án có vi phạm dẫn đến phải hủy để xét xử lại
4/28/2023 11:04:31 AMThông qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp thừa kế tài sản” giữa nguyên Đ cụ Nguyễn Xuân Q, sinh năm 1930, bị Đ anh Nguyễn Văn R, sinh năm 1982, cùng địa chỉ: thôn VH, xã ĐP, huyện TH do Tòa án nhân dân huyện TH, tỉnh TB thụ lý, giải quyết theo thủ tục sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, xác định sai tư cách tố tụng, giải quyết vượt quá yêu cầu của đương sự dẫn đến giải quyết chưa chính xác về nội dung vụ án ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên cấp phúc thẩm phải hủy án, cần thông báo rút kinh nghiệm, cụ thể như sau:

1. Nội dung vụ án

            Cụ Nguyễn Xuân Q và cụ Trần Thị Đ (sinh năm 1929, mất ngày 25/10/2021) kết hôn và sinh được 05 người con là: Ông Nguyễn Văn L (sinh năm 1948, mất năm 2020); ông Nguyễn Văn L1; bà Nguyễn Thị G (sinh năm 1954, mất năm 1967, không có chồng, con); ông Nguyễn Xuân B; bà Nguyễn Thị L. Ông L có vợ là Trần Thị V và 04 người con là Nguyễn Thị N; Nguyễn Văn H; Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn R. Ngoài ra hai cụ không có con đẻ và con nuôi nào khác. Bố, mẹ của cụ Đ chết trước khi cụ Đ chết. Cụ Đ chết không để lại di chúc, di sản để lại là phần tài sản chung với cụ Q gồm: thửa đất số 1059, tờ bản đồ địa chính số 05, diện tích là 340m2, loại đất ở và tài sản trên đất là ngôi nhà mái ngói cấp 4, đã hết hạn sử dụng tại thôn VH, xã ĐP, huyện TH do Tòa án nhân dân huyện TH, tỉnh TB đã được cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số H266267 vào sổ cấp giấy chứng nhận số 989, ngày 26/12/1995 mang tên Nguyễn Văn Q. Tài sản trên đất đều do cụ Q và cụ Đ xây dựng, hiện cụ Nguyễn Xuân Q là người quản lý và sử dụng đất và tài sản nêu trên.

          Cụ Q đề nghị chia di sản thừa kế của cụ Đ, cụ đề nghị được nhận bằng hiện vật, cụ sẽ có nghĩa vụ thanh toán bằng tiền đối với các suất thừa kế còn lại.

          Bị Đ anh Nguyễn Văn R và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị V, chị Nguyễn Thị N, anh Nguyễn Văn H và anh Nguyễn Văn H không nhất trí với yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Nguyễn Xuân Q; đề nghị được mua lại thửa đất 1059 trên để làm khuôn viên chung và giữ đất hương hỏa.

          Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn L1, ông Nguyễn Xuân B và bà Nguyễn Thị L đều nhất trí yêu cầu của cụ Q và đều nhường lại phần thừa kế cho cụ Q.

  Bản án sơ thẩm số 11/2022/DS-ST ngày 29/12/2022 của Tòa án nhân dân huyện TH quyết định:

1. Chấp nhận yêu cầu của cụ Nguyễn Xuân Q, chia di sản thừa kế của cụ Trần Thị Đ theo quy định của pháp luật:

- Di sản thừa kế của cụ Trần Thị Đ gồm: 170m2 đất ở, có giá trị là 142.800.000 đồng; 24m2 đất trồng cây lâu năm, có giá trị là 1.008.000 đồng và 12.781.700 đồng giá trị tài sản trên đất. Tổng giá trị di sản thừa kế của cụ Trần Thị Đ để lại là 156.526.700 đồng. Toàn bộ di sản thừa kế tại thửa đất số 1059, thuộc tờ bản đồ số 5, đã được Chủ tịch UBND huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số H 266267, vào sổ cấp giấy chứng nhận số 989, ngày 26/12/1995.

- Chia thừa kế của cụ Trần Thị Đ bằng tiền: Cụ Nguyễn Xuân Q, ông Nguyễn Văn L1, ông Nguyễn Xuân B, bà Nguyễn Thị L và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Văn L (gồm bà Trần Thị V, chị Nguyễn Thị N, các anh Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn R), mỗi suất thừa kế được hưởng 28.560.000 đồng tiền đất ở; 201.600 đồng tiền đất trồng cây lâu năm và 2.543.700 đồng là giá trị tài sản trên đất. Tổng giá trị bằng tiền là 31.305.300 đồng.

- Chấp nhận nguyện vọng của các ông, bà Nguyễn Văn L1, Nguyễn Xuân B, bà Nguyễn Thị L nhường lại toàn bộ phần di sản thừa kế được hưởng của cụ Trần Thị Đ cho cụ Nguyễn Xuân Q.

- Cụ Nguyễn Xuân Q được hưởng toàn bộ phần diện tích đất ở là 170m2; đất trồng cây lâu năm là 24m2, tổng cộng là 194m2 và ½ giá trị các tài sản trên đất là nhà ở, các công trình khác, cây trồng trên đất là di sản thừa kế của cụ Trần Thị Đ.

Tổng cộng, cụ Nguyễn Xuân Q được hưởng toàn bộ phần đất ở diện tích 340m2; đất trồng cây lâu năm là 48m2, tổng cộng là 388m2 và các tài sản trên đất là nhà ở, các công trình khác, cây trồng trên đất tại thửa đất số 1059, thuộc tờ bản đồ số 05, đã 468 được Chủ tịch UBND huyện TH, tỉnh TB cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số H266267, vào sổ cấp giấy chứng nhận số 989, ngày 26/12/1995 ghi tên người sử dụng là cụ Nguyễn Văn Q tại thôn VH, xã ĐP, huyện TH, tỉnh TB.

Cụ Nguyễn Xuân Q có nghĩa vụ thanh toán cho bà Trần Thị V 46.305.300 đồng gồm: 31.305.300 đồng là giá trị đất và tài sản trên đất được chia + 15.000.000 đồng tiền công sức cho việc chăm sóc cụ Trần Thị Đ và thờ cúng bà Nguyễn Thị G (bà V có trách nhiệm thanh toán cho chị Nguyễn Thị N, các anh Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn R mỗi người 6.261.000 đồng).

          Ngoài ra còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

2. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm.

- Vi phạm về xác định hàng thừa kế: Cụ Nguyễn Xuân Q và cụ Trần Thị Đ (mất năm 2021) có 05 người con chung: ông Nguyễn Văn L (mất năm 2020), ông Nguyễn Văn L1; bà Nguyễn Thị G (mất năm 1967 không chồng, không con); ông Nguyễn Xuân B và bà Nguyễn Thị L. Ông L mất năm 2020, trước cụ Đ, ông L có 04 người con là: anh R, anh H, anh H và chị N nên 04 người con này của ông L được hưởng thừa kế thế vị suất thừa kế của ông L theo Điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2015. Như vậy những người thừa kế của cụ Đ gồm: Cụ Q, ông L1, ông B, bà L, (anh R, anh H, anh H và chị N). Bản án sơ thẩm xác định bà V (vợ ông L), anh R, anh H, anh H và chị N là người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông L được hưởng phần di sản thừa kế của cụ Đ là không đúng quy định tại Điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Vi phạm về nội dung chia thừa kế:

+ Về việc xác định di sản thừa kế: Theo bản đồ 1990, số thửa 2943, có diện tích 340m2 mang tên Nguyễn Q; theo bản đồ 1995, thửa đất 1059, tờ bản đồ số 5, diện tích 340m2 mang tên Nguyễn Văn Q, thửa đất đã được Chủ tịch UBND huyện TH, tỉnh TB cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số H266267, vào sổ cấp giấy chứng nhận số 989, ngày 26/12/1995 của, diện tích 340m2, loại đất T; theo kết quả đo đạc ngày 21/10/2022, thửa đất trên có tổng diện tích là 388m2. Việc biến động diện tích đất từ 340m2 lên 388m2 đất theo UBND xã ĐP, huyện TH xác định là sai số trong quá trình đo đạc từ thời kỳ trước; gia đình cụ Q không mua bán, nhận chuyển nhượng hay cho tặng để dẫn đến việc biến động đất. Như vậy qua quá trình xác minh thì địa phương chỉ cung cấp biến động về diện tích đất, chưa xác định cụ thể phần diện tích 48m2 đất dôi dư so với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là loại đất gì. Bản án sơ thẩm từ xác minh của địa phương mà xác định luôn 48m2 đất này là đất trồng cây lâu năm là chưa đủ căn cứ pháp lý.

+ Trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm không có đương sự nào yêu cầu tính công sức chăm sóc cụ Đ khi ốm đau và thờ cúng bà Nguyễn Thị G nhưng cấp sơ thẩm chia một phần công sức cho bà V (vợ ông L) là 15.000.000 đồng là giải quyết vượt quá phạm vi yêu cầu; cấp sơ thẩm có sự nhầm lẫn khi xác định công sức chăm sóc cụ Đ khi ốm đau và thờ cúng bà G với công sức đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế dẫn đến việc các đương sự không có yêu cầu song vẫn giải quyết.

+ Tại phiên tòa sơ thẩm bà V là người liên quan vắng mặt, anh R có mặt, không ai ủy quyền tham gia tố tụng cho bà V; anh R, anh H, anh H và chị Nhài không ai bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi. Bản án sơ thẩm quyết định giao số tiền cụ Q phải thanh toán 1 suất thừa kế cho bà V quản lý và bà V phải có trách nhiệm thanh toán lại với anh R, anh H, anh H và chị N là chưa phù hợp.

Trương Thị Huyền – Phòng 9 Viện KSND tỉnh Thái Bình

 

Tin liên quan
  • Thành viên

Phần mềm quản lý

Liên kết website

Thống kê

Đang truy cậpKhách online : 16

Tổng lượt truy cậpTổng số truy cập : 5337689