Những điểm mới của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014
6/8/2015 10:16:23 AMLuật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được Quốc hội khóa XIII tại kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 24/11/2014, có kết cấu gồm 06 chương, 101 điều và được xác định là sửa đổi căn bản, toàn diện về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) có hiệu lực từ ngày 01/6/2015. Riêng, một số điều có hiệu lực sớm hơn kể từ ngày 01/02/2015. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò, chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát trong hoạt động tư pháp, đồng thời mở rộng một số quyền năng, bổ sung một số quy định để Viện kiểm sát để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ theo quy định Hiến pháp năm 2013. Sau khi nghiên cứu, Ban tuyên truyền- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh tổng hợp một số nội dung mới cơ bản của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 để các đơn vị, cá nhân tham khảo.
I. Cơ cấu, bố cục: Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được Quốc hội khóa XIII tại kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 24/11/2014, có kết cấu gồm 06 chương, 101 điều. Gồm:
Chương 1: Những quy định chung, gồm có 11 điều quy định về phạm vi điều chỉnh của Luật; chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, các lĩnh vực công tác, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động, ngày truyền thống, phù hiệu của Viện kiểm sát nhân dân( VKSND).
Chương 2: Các công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND, gồm có 28 điều được chia thành 10 mục, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong các lĩnh vực công tác.
Chương 3: Tổ chức của VKSND, gồm có 18 điều quy định về hệ thống VKSND, VKS quân sự; nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND các cấp; cơ cấu tổ chức của VKSND, VKS quân sự các cấp; việc thành lập, giải thể VKSND, VKS quân sự.
Chương 4: Cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác của VKSND, gồm có 35 điều được chia thành 04 mục, quy định chế độ pháp lý đối với các chức danh tư pháp của VKSND.
Chương 5: Bảo đảm hoạt động của VKSND, gồm có 07 điều quy định các điều kiện bảo đảm cho hoạt động của VKSND và cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác của VKSND.
Chương 6: Điều khoản thi hành, gồm có 02 điều quy định về hiệu lực thi hành của Luật, trách nhiệm của các cơ quan và các điều, khoản của Luật cần quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành.
Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/6/2015. Trong đó một số điều: Điều 40, Điều 49, các khoản 3,4 và 5 Điều 63, Điều 74, Điều 76 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/02/2015 (lý do: để thực hiện công tác chuẩn bị về tổ chức bộ máy, cán bộ, cơ sở vật chất và các điều kiện khác đảm bảo hoạt động của VKSND các cấp từ ngày 01/6/2015).
II. Những nội dung mới của Luật tổ chức VKSND 2014.
1.Viện kiểm sát nhân dân - thiết chế Hiến định trong bộ máy nhà nước: Luật tổ chức VKSND năm 2014 khẳng định rõ hơn vị trí của VKSND là thiết chế Hiến định trong bộ máy nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định rõ phạm vi, nội dung, mục đích, thẩm quyền của từng chức năng thực hành quyền công tố, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định VKSND thực hành quyền công tố trong các giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; điều tra; truy tố; xét xử vụ án hình sự; trong tương trợ tư pháp về hình sự. Chức năng thực hành quyền công tố của VKS được thực hiện từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Đối với chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã bổ sung các quy định về kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; kiểm sát trong giai đoạn truy tố; kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp.
Bên cạnh đó, Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã làm rõ nội dung các lĩnh vực công tác và bổ sung quy định về các công tác phục vụ thực hiện chức năng của VKSND. Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã phân định lại một cách rõ ràng, hợp lý, cụ thể các công tác thực hiện chức năng gồm: Thực hành quyền công tố (THQCT), kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; THQCT và kiểm sát điều tra vụ án hình sự; THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn truy tố; THQCT và Kiểm sát xét xử vụ án hình sự; Công tác điều tra của Cơ quan điều tra VKSND; Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự; Kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật; Kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính; Giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; THQCT và kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp. Quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong từng khâu công tác; Bổ sung quy định và phân biệt rõ các công tác phục vụ thực hiện chức năng gồm: thống kê tội phạm; nghiên cứu khoa học; xây dựng pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng; hợp tác quốc tế; phổ biến, giáo dục pháp luật.
2. Mở rộng thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND: Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã mở rộng thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND cả về loại tội và chủ thể thực hiện tội phạm. Theo Luật hiện hành, Cơ quan điều tra VKSNDTC, Cơ quan điều tra VKS quân sự Trung ương chỉ điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp. Theo Luật tổ chức VKSND năm 2014, Cơ quan điều tra VKSNDTC, Cơ quan điều tra VKS quân sự Trung ương không chỉ điều tra các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà còn điều tra các tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp (Điều 20).
3. Phân định rõ các trường hợp Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị hoặc kiến nghị: Luật tổ chức VKSND 2002 quy định quyền kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát nhưng chưa phân định rõ trong trường hợp nào thì Viện kiểm sát kháng nghị trường hợp nào thì Viện kiểm sát kiến nghị. Luật tổ chức Viện kiểm sát 2014 quy định rõ Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị trong trường hợp hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Thực hiện quyền kiến nghị trong trường hợp hành vi, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng hoặc khi phát hiện cơ quan, tổ chức hữu quan có sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý. Luật cũng quy định rõ trach nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc giải quyết, trr lời kháng nghị, kiến nghị của VKSND, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả khi VKSND thực hiện các quyền này trên thực tế.
4. Làm rõ hơn nội dung nguyên tắc “tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành” và làm rõ nội dung “ khi Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND” theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Cụ thể: Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã làm rõ mối quan hệ giữa Viện trưởng VKSND cấp trên với Viện trưởng VKSND cấp dưới và ngược lại thông qua các quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng VKSND các cấp. Đồng thời làm rõ thêm quy định của Hiến pháp “khi Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND” như sau: “ Kiểm sát viên phải chấp hành quyết dịnh của Viện trưởng Viện kiểm sát. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì Kiểm sát viên có quyền từ chối nhiệm vụ được giao và phải kịp thhòi báo cáo bằng văn bản với Viện trưởng; trường hợp Viện trưởng vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và Kiểm sát viên phải chấp hành nhưng không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo lên Viện trưởng VKS cấp trên có thẩm quyền. Viện trưởng đã quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
5. Về tổ chức bộ máy của VKSND: Luật năm 2014 quy định, Viện kiểm sát có 04 cấp gồm:
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
- Viện kiểm sát nhân dân cấp cao,
- Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh,
- Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện,
Trong đó VKSND cấp cao là cấp kiểm sát mới, có nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp cao. Cụ thể: Viện kiểm sát nhân dân cấp cao: Thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử phúc thẩm, kiểm sát xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND cấp cao: Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã có kháng cáo, kháng nghị mà chưa được giải quyết; Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã có kháng nghị mà chưa được giải quyết. Giải quyết kiến nghị đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh được VKSND cấp tỉnh, VKSND tối cao thụ lý mà chưa được giải quyết. Viện trưởng VKSND cấp cao có thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh; kháng nghị thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện, tòa án nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi lãnh thổ thuộc thẩm quyền.
Cơ cấu tổ chức của VKSND cấp cao gồm có Ủy ban kiểm sát (UBKS), Văn phòng, các Viện và đơn vị tương đương.
Đối với VKSND cấp huyện, Luật 2014 quy định giữ nguyên tổ chức bộ máy như hiện nay (theo địa hạt hành chính), không tổ chức thành Viện kiểm sát khu vực. Cơ cấu tổ chức của VKSND cấp huyện gồm có văn phòng và các phòng; những nơi chưa đủ điều kiện thành lập Phòng thì tổ chức các bộ phận công tác và bộ máy giúp việc.
6. Về Ủy ban kiểm sát: Theo Luật TCVKSND năm 2002, Uỷ ban kiểm sát(UBKS) được tổ chức ở VKSNDTC, VKSND cấp tỉnh, VKS quân sự Trung ương, VKS quân sự quân khu và tương đương. Theo Luật năm 2014, UBKS được thành lập thêm ở VKSND cấp cao. Như vậy, theo Luật hiện hành và Luật mới thì ở VKSND cấp huyện, VKS quân sự khu vực không tổ chức UBKS. Về vị trí, vai trò, thẩm quyền của UBKS: Luật tổ chức VKSND năm 2014 tiếp tục quy định UBKS có quyền quyết định những vấn đề quan trọng về tổ chức và hoạt động của VKSND. Riêng đối với các vụ án, vụ việc, UBKS chỉ có vai trò tư vấn theo đề nghị của Viện trưởng; Luật năm 2014 còn bổ sung thẩm quyền cho UBKS xét tuyển người có đủ điều kiện dự thi vào các ngạch Kiểm sát viên. Luật năm 2014 quy định rõ, khi quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền, UBKS phải ban hành nghị quyết (Luật hiện hành - 2002 không quy định rõ vấn đề này). Liên quan đến mối quan hệ của Viện trưởng VKSNDTC với UBKS, Luật năm 2014 quy định trường hợp Viện trưởng VKSNDTC không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên UBKS thì vẫn phải thực hiện theo quyết định của đa số, mà không có quyền báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc Chủ tịch nước. Ở các cấp VKS khác, trong trường hợp Viện trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên UBKS thì phải thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Viện trưởng VKSNDTC. Nếu ở VKS quân sự quân khu và tương đương thì Viện trưởng VKS quân sự quân khu và tương đương báo cáo Viện trưởng VKS quân sự Trung ương.
7. Về Kiểm sát viên và Kiểm tra viên: Luật năm 2014 quy định có 04 ngạch Kiểm sát viên gồm: Kiểm sát viên VKSNDTC, Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp. Tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên cao cấp tương ứng với tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSNDTC hiện nay và nâng cao tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSNDTC. Về số lượng Kiểm sát viên VKSNDTC, Luật năm 2014 quy định không quá 19 người. Về nhiệm kỳ Kiểm sát viên, Luật năm 2014 quy định Kiểm sát viên được bổ nhiệm lần đầu có thời hạn là 05 năm, trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc nâng ngạch thì thời hạn là 10 năm.
Về cơ chế tuyển chọn Kiểm sát viên, Luật năm 2014 quy định: Áp dụng hình thức thi tuyển vào các ngạch Kiểm sát viên sơ cấp, trung cấp, cao cấp. Hội đồng thi được tổ chức ở VKSNDTC, do Viện trưởng VKSNDTC làm Chủ tịch, các ủy viên gồm đại diện lãnh đạo nhiều cơ quan. Không áp dụng hình thức thi tuyển vào ngạch đối với Kiểm sát viên VKSNDTC.
Về Kiểm tra viên, Luật hiện hành không quy định về Kiểm tra viên; Luật năm 2014 quy định Kiểm tra viên là chức danh tư pháp, được bổ nhiệm để giúp Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo sự phân công của Viện trưởng. Kiểm tra viên có 03 ngạch như hiện nay (Kiểm tra viên, Kiểm tra viên chính, Kiểm tra viên cao cấp). Tiêu chuẩn bổ nhiệm, điều kiện nâng ngạch Kiểm tra viên do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định.
8. Về các chế độ bảo đảm cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác của VKSND: Luật hiện hành chỉ quy định chung về chế độ tiền lương, phụ cấp, giấy chứng minh, trang phục. Luật năm 2014 đã bổ sung các quy định: Kiểm sát viên, Điều tra viên, Kiểm tra viên có thang, bậc lương riêng, chế độ phụ cấp đặc thù và phụ cấp khác; quy định chính sách khuyến khích, tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực phục vụ ngành KSND; bảo đảm kinh phí cho công tác đào tạo, bồi dưỡng; ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức, viên chức của VKSND là người dân tộc thiểu số hoặc công tác tại miền núi, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Quy định về khen thưởng, xử lý vi phạm, tạo cơ sở pháp lý để Viện trưởng VKSNDTC ban hành các hình thức khen thưởng đặc thù của ngành Kiểm sát.
9. Về cơ chế kiểm soát, giám sát đối với VKSND: Luật hiện hành chỉ quy định về giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối với VKSND. Luật năm 2014 ngoài quy định giám sát của Quôc hội và HĐND còn quy định cơ chế kiểm soát trở lại của Cơ quan điều tra, Tòa án, Cơ quan thi hành án và các cơ quan khác có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp đối với việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND. Đây là việc thể chế hóa tư tưởng kiểm soát quyền lực trong Hiến pháp năm 2013; quy định rõ các thiết chế giám sát bằng hình thức dân chủ đại diện gồm có Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân; quy định cơ chế giám sát thông qua dân chủ trực tiếp và các tổ chức chính trị - xã hội.
Ban tuyên truyền- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình